This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2000

Mùa mưa lũ đề phòng các bệnh về da

Sau mưa lũ, do điều kiện vệ sinh kém, môi trường, nguồn nước bị ô nhiễm và chứa đựng nhiều vi khuẩn gây bệnh, trong đó phải kể đến các vi khuẩn gây bệnh về da. Vậy những bệnh về da thường gặp trong mùa mưa lũ là gì? Có những biện pháp hiệu quả nào để điều trị và phòng bệnh? Bài viết của ThS. Đỗ Xuân Khoát sẽ giải đáp những thắc mắc này.

Mùa mưa lũ, do điều kiện vệ sinh kém, môi trường, nguồn nước bị ô nhiễm và chứa đựng nhiều vi khuẩn gây bệnh. (Ảnh: Đ. Nam - nguồn internet)

Các bệnh nhiễm khuẩn da

Chốc lở: Do điều kiện vệ sinh kém, ăn uống thiếu chất, lao động dọn dẹp vệ sinh sau lũ dễ bị tổn thương da, tạo điều kiện cho vi khuẩn tấn công. Thương tổn là những mụn nước, mụn mủ trên da, tập trung ở vùng hở, tay chân. Khi dập vỡ tạo vết chợt loét nông, trên có vảy màu vàng hoặc màu nâu bẩn, xung quanh có viền vảy hoặc quầng đỏ. Khi bị cần phải lau rửa bằng cồn sát khuẩn hoặc betadin. Bôi thuốc sát khuẩn, xanh methylen, castellani. Khi thương tổn đã khô chuyển sang bôi thuốc mỡ kháng sinh như tetraxyclin, foban, bocidate, fucidin. Uống thuốc kháng sinh để bệnh nhanh khỏi và tránh những biến chứng nguy hiểm như viêm cầu thận.

Viêm nang lông: Do thiếu nước sạch, tắm gội vi khuẩn phát triển ở những nang lông như đầu, lông nách, lông sinh dục, râu, lông mày tạo thành những mụn mủ nhỏ ở nang lông rất ngứa, gãi nhiều chảy nước, dịch, ướt tóc, gọi là viêm nang lông chàm hóa rất khó chữa. Khi bị bệnh cũng phải sát khuẩn bằng cồn 70 độ, betadin, bôi mỡ kháng sinh và uống kháng sinh kháng tụ cầu như oxaxylin, bristopen, cloxylan, hạn chế gãi, chải đầu nhẹ nhàng, không làm tổn thương da đầu.

Khám bệnh ngoài da cho bệnh nhân.

Bệnh viêm kẽ do vi khuẩn (Erythrasma):

hay gặp ở người béo phì, vị trí: hai bẹn, nách, cổ và nếp lằn vú ở phụ nữ. Cũng do thiếu nước sạch vệ sinh, mồ hôi ứ đọng, tạo điều kiện cho vi khuẩn phát triển, thương tổn là những đám da màu đỏ, bờ rõ, có vảy mỏng, hầu như không ngứa, trừ phi bị ở bẹn có cảm giác châm chích khó chịu. Căn nguyên do loại vi khuẩn có tên gọi Corynebacterium minutissimum. Chẩn đoán phân biệt với nấm da bằng cách chiếu đèn huỳnh quang thấy xuất hiện màu đỏ san hô, phân biệt với màu vàng huỳnh quang của nấm. Điều trị bằng bôi dung dịch eryfluid và uống erythromycin 250mg 4 lần 1 ngày.

Bệnh tiêu sừng lõm lòng bàn chân: (pitted keratolysis): còn gọi là bàn chân rỗ, bàn chân hà. Tổn thương là những vết lõm đường kính từ 1-3mm tập trung thành đám ở lòng bàn chân hay thấy ở gót trước và gót sau không đau không ngứa. Căn nguyên do vi khuẩn có tên gọi Micrococcus Sedentarius. Chẩn đoán không khó, chỉ cần dựa vào hình ảnh bàn chân rỗ. Điều trị ngâm rửa nước muối sau đó bôi mỡ kháng sinh erythromycin hoặc clindamycin và mỡ whitfeld xen kẽ, bệnh sẽ khỏi hoàn toàn.

Bệnh da do ký sinh trùng

Bệnh do ấu trùng xâm nhập vào da: Còn gọi là ấu trùng di trú trên da, bệnh ít thấy ở nước ta nhưng cũng không có nghĩa là không có mà do khả năng phát hiện bệnh còn hạn chế. Do trứng của giun sán tồn tại trong đất cát nở thành ấu trùng và xâm nhập vào da người, di trú trên da với tốc độ vài centimet một ngày. Chúng di chuyển ngay dưới lớp sừng tạo thành đường ngoằn ngoèo hơi nổi cao, rộng khoảng 2-3mm. Số lượng tổn thương phụ thuộc vào số lượng ấu trùng xâm nhập. Vị trí hay gặp: cẳng chân, mông, quanh hậu môn, tay. Triệu chứng cơ năng rất ngứa, ấu trùng tồn tại trên da trung bình từ 2-8 tuần. Hiếm khi trên 2 năm. Phòng bệnh: tránh tiếp xúc trực tiếp với đất cát chứa phân. Điều trị tại chỗ: bôi mỡ kháng ký sinh trùng albendazole. Uống thiabendazole 50mg/1kg cân nặng trong ngày, từ 2-5 ngày.

Ghẻ: Trong điều kiện vệ sinh kém, ghẻ cũng sinh sôi nảy nở và lây truyền rất nhanh. Do tiếp xúc trực tiếp giữa người bị ghẻ với người lành. Căn nguyên do ký sinh trùng có tên gọi Sarcoptes Scabies xâm nhập vào da. Thương tổn là những mụn nước, rãnh ghẻ. Vị trí hay gặp: kẽ các ngón tay, nếp lằn chỉ cổ tay, cạp quần, vùng bụng, đùi non, mông bẹn, sinh dục, nếp lằn vú, nách. Hiếm khi thấy ghẻ ở 1/3 trên lưng, mặt. Triệu chứng cơ năng: rất ngứa. Nếu không được phát hiện chữa kịp thời, ghẻ sẽ có biến chứng nhiễm trùng thành những mụn mủ eczema hóa rất khó chữa trị và lây lan ra cộng đồng rất nhanh. Điều trị: vệ sinh cá nhân và bôi thuốc chữa ghẻ, bôi một trong những loại thuốc sau: DEP, eurax, ascabiol. Điều trị cho cả nhà, những người có biểu hiện ngứa ghẻ. Tẩy uế quần áo ga gối bằng cách luộc hoặc phơi 3-4 nắng.

Ghẻ.

Nước ăn chân

Thực chất là bị nhiễm nấm Candida và Blastomycet. Do chân tay ngâm trong nước nhiều, tế bào sừng bị chết và môi trường ẩm ướt làm cho nấm xâm nhập và phát triển. Thương tổn hay gặp ở các kẽ ngón chân 4, 5, kẽ ngón tay 3, 4. Lúc đầu là những đám da chết mục màu trắng, ngứa nhiều, gãi lột lớp da chết để lại nền da đỏ hồng ẩm ướt, đau rát, ngứa vẫn tiếp tục làm bệnh nhân gãi và rất đau. Nếu không được điều trị, vết chợt loét sâu và lan rộng, nhiễm trùng sưng đau, đi lại khó khăn. Bệnh cũng hay gặp ở người làm nghề quét dọn, công nhân vệ sinh, người nội trợ, giúp việc, thường xuyên phải tiếp xúc với nước, người có bệnh đái tháo đường cũng thường bị nhiễm loại nấm trên. Khi bị bệnh cần hạn chế lội nước, lau chân khô trước khi đi giày dép và điều quan trọng là phải dùng thuốc chống nấm như: castellani, calcream, nizoral, dezor; rửa chân tay bằng xà phòng diệt nấm SAStid hoặc nước quả chanh để tránh tái nhiễm.


ThS. Đỗ Xuân Khoát

Tình dục và tuổi tác

Do nhiều biến đổi của cơ thể xảy ra khi tuổi càng cao (từ 40 tuổi trở đi), da có nhiều nếp nhăn, vết nám, tóc bạc và rụng, người béo ra nhất là bụng và vú, nội tiết tố nam giảm đi. Vậy về tình dục có những thay đổi gì khi tuổi tác tăng dần?

Khó khăn và cách khắc phục

- Muốn cương được cần có nhiều kích thích tình dục hơn khi trẻ. Dương vật và bìu đều giảm cảm xúc nên cần nhiều kích thích trực tiếp hơn, nhiều ve vuốt hơn mới cương cứng lên được. Đối tác của bạn cũng nhiều tuổi hơn và không còn sức hấp dẫn kích thích như xưa. Ở tuổi này, đôi khi đang mải mê với thú vui vợ chồng thì dương vật của bạn lại bị xìu mềm. Bạn và vợ bạn đừng buồn nản vì hiện tượng nhất thời này, khi ấy cần bàn tay hợp tác của các quý bà sẽ làm cho nó cương cứng trở lại.

- Dương vật cứng nhưng không cứng như trước. Nó có thể kém cứng chút đỉnh và lại dễ bị xìu mềm hơn vì hệ thống sợi chun giãn và mạch máu ở dương vật đã bị suy yếu. Cũng đừng lo. Việc giao hợp không đòi hỏi một dương vật cứng như sắt mà chỉ cần đủ cứng.

- Thời gian giữa hai lần cương và khả năng giao hợp lần sau thay đổi tùy theo tuổi và tùy thuộc vào từng cá nhân nữa. Ở tuổi 20-30, sau khi xuất tinh rồi chỉ cần vài chục phút, dương vật có thể cứng lại, lần giao hợp thứ hai vẫn xuất tinh bình thường và có thể thực hiện tới lần 3, lần 4... trong cùng ngày. Nhưng từ tuổi 50 thì có thể bạn phải đợi lâu, có khi cả tuần hay lâu hơn mới cương được. Còn khi già hơn nữa, ví dụ trên 60 tuổi thì bạn đã thiếu cả nội tiết nam (testosteron) nên còn thưa hơn nữa.

- Khi xuất tinh, độ phóng không còn mạnh mẽ như trước và sự xìu đến nhanh hơn. Có khi đang phóng đã xìu ngay. Tinh dịch như tự chảy ra chứ không còn là phóng tinh nữa. Bạn vẫn có khoái cực và đừng làm gì ảnh hưởng đến khoái cực của vợ bạn. 3 biện pháp làm vợ bạn vẫn đạt khoái cực là:

- Tăng và kéo dài thời gian dạo nhạc ban đầu bằng nhiều âu yếm thân mật hơn.

- Cảm giác vui thú tình dục sau khi xuất tinh của bạn vẫn có thể kéo dài hơn trước nhiều mặc dù khoái cực, cảm giác đê mê có thể ngắn hơn và thời gian xuất tinh ngắn hơn. Khi các xương khớp đã lỏng lẻo thì bạn có thể thay đổi tư thế, ví dụ nhường vợ ở trên để được mạnh mẽ và chủ động hơn.

- Một loạt thay đổi toàn thân cả về nội tiết lẫn các chức năng khác của các ông cũng thay đổi gần giống như thời kỳ mãn kinh của các bà. Nghĩa là: bẳn tính và trầm uất; hay quên và độ tập trung kém; mất ngủ, khó ngủ lại khi tỉnh dậy ban đêm, dậy sớm nhưng lại hay gà gật, có lẽ do thiếu melatonin; cơn bốc hỏa hay xảy ra ban đêm, đang ngủ tự nhiên người nóng bừng, vã mồ hôi và muốn ra ngoài lau mình; cường độ tình dục giảm mạnh sau 60 tuổi, có lẽ là hậu quả kết hợp của cả thể lực giảm và nội tiết giảm. Đấy là chưa kể đến một số thói quen gia đình, ông bà thích ngủ cùng cháu nội, cháu ngoại mà không ngủ chung với nhau nữa.

Khả năng sinh sản của các cụ ông như thế nào?

Nhiều cụ 60-70 tuổi hoặc hơn vẫn lấy vợ và sinh con. May thay, các cụ ông khi về hưu (60 tuổi trở lên) thì tình dục giảm, một số cụ “hưu” luôn cả tình dục nhưng khả năng sinh sản thì không hưu. Một nghiên cứu tỉ mỉ ở Đức trên 23 đối tượng già (60-88 tuổi) và 20 đối tượng trẻ (24-37 tuổi) để so sánh khả năng sinh sản của họ. Kết quả là nội tiết tố sinh sản của họ tương đương nhau. Tinh trùng có số lượng và mật độ tương đương, khả năng sinh sản được kết luận là như nhau. Trên thực tế, các cụ trên 60 tuổi muốn nghỉ ngơi thư giãn, hưởng thụ thành quả của mấy chục năm lao động hơn là muốn có thêm con nhỏ để lại phải đêm hôm chăm sóc. Do vậy nhu cầu thuốc chữa rối loạn cương phần nhiều vì suy giảm tình dục.

Chất lượng những đứa con sinh ra (dị tật, sức khỏe...) lệ thuộc vào tuổi của người phụ nữ nhiều hơn là tuổi của các ông bố.

Dùng thuốc chữa rối loạn cương không hiệu quả thì chữa cách nào?

Hoa Kỳ, nơi sản xuất và sử dụng đầu tiên thuốc viagra và có tới 70% thành công với thuốc. 30% còn lại phải tìm cách khác. Có nhiều cách:

- Tiêm thuốc giãn mạch máu vào ngay dương vật để kéo máu về làm cương to và cứng. Cần tiêm 1 mũi/1 lần giao hợp.

- Đặt một viên thuốc giãn mạch vào ống niệu đạo trước qua lỗ sáo.

Hai cách này có thể gây cương cứng kéo dài.

- Dùng ống hút chân không, cho dương vật vào ống và giảm áp dần ở ống bằng một dụng cụ bóp tay có cơ chế giống như làm giác hút. Có thể cứng trong vòng 30 phút. Càng ngày càng có nhiều người dùng cách này.

- Phẫu thuật vừa tốn kém, vừa khó nên ít người dùng.

- Đông y cũng có nhiều bài thuốc có kết quả tốt. Tuy nhiên cần có sự bắt mạch kê đơn của thầy thuốc đông y hoặc lương y.

Tạm biệt nhiệt miệng, loét miệng, phồng rộp miệng lưỡi, nóng trong người

Ảnh nhiệt miệng, loét miệng, phồng rộp miệng lưỡi, nóng trong người

Nguyên nhân gây loét miệng

Loét miệng khởi phát với cảm giác ngứa và bỏng rát ở niêm mạc trong má, hay ở bờ hoặc mặt dưới lưỡi, lợi, môi, sàn miệng, vòm khẩu cái...Sau đó hình thành một hay vài vết loét, nông hoặc sâu, ranh giới rõ rệt, niêm mạc chung quanh vết loét sưng tấy đỏ. Đau là triệu chứng điển hình và luôn có, nên thường gây khó chịu trong khi nói và nhai thức ăn, nhất là khi ăn những thức ăn cay, mặn. Bệnh thường kéo dài trong vòng từ 7-10 ngày rồi tự khỏi, khi khỏi thường không để lại sẹo, nhưng rất hay tái phát, ảnh hưởng không nhỏ tới sinh hoạt, cũng như công việc.

Y học hiện tại vẫn chưa xác định được rõ, các nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh loét miệng. Tuy nhiên, có một số nhân tố được coi là nguyên nhân gây bệnh như:

- Tình trạng thiếu dinh dưỡng hoặc dinh dưỡng không đúng cách, dẫn đến tình trạng thiếu vitamin C, PP, B6, B12, kẽm...

- Do rối loạn nội tiết ở phụ nữ, khi hành kinh, mang thai, ở độ tuổi mãn kinh

- Nhiễm khuẩn hay virus khi niêm mạc miệng bị tổn thương do xương đâm, răng cắn vào

- Do các bệnh tiêu hóa, do di truyền, thần kinh căng thẳng, một số loại thuốc...

Phương pháp đẩy lùi chủ yếu là giảm đau, vì là triệu chứng khó chịu nhất. Ngoài ra, còn sử dụng một số loại nước súc miệng, thuốc mỡ bôi tại chỗ và một số thuốc tác dụng toàn thân.

Y học cổ truyền đẩy lùi hiệu quả như thế nào ?

- Bệnh loét miệng, trong Đông y gọi là “Khẩu sang”. Bệnh danh “Khẩu sang” xuất hiện đầu tiên trong Nội kinh, bộ sách lý luận kinh điển cổ nhất của Đông y học cách nay hơn 2.000 năm. Trong các y thư cổ đời sau, bệnh còn được đề cập với những tên khác, như “Khẩu dương”, “Khẩu phá”, “Khẩu cam”, “Khẩu vẫn sang”, “Nha sang”...

-Theo quan niệm của Đông y học, “Khẩu sang” tuy là dạng bệnh biến cục bộ (chỉ phát sinh trong khoang miệng), nhưng có liên quan tới hoạt động của các tạng, phủ trong cơ thể, nhất là 2 tạng tâm và tỳ:

Tâm tỳ tích nhiệt

“Tâm tỳ tích nhiệt” (nhiệt tích đọng tâm và tỳ) thường gây ra loét miệng, vì tâm thông với lưỡi (khai khiếu) và tỳ thông với miệng.

Biểu hiện (chứng trạng): trên niêm mạc miệng xuất hiện tương đối nhiều vết loét, kích thước khác nhau. Trên mặt vết loét có chất dịch phân tiết màu vàng nhạt, niêm mạc quanh vết loét sung huyết đỏ tươi, kèm theo nóng rát, đau nhức. Thường kèm theo cảm giác bồn chồn, mất ngủ, miệng hôi, khát nước, đại tiện táo bón, tiểu tiện vàng sẻn. Chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng. Mạch sác (nhanh - trên 90 lần/phút).

Ảnh minh họa

m hư hỏa vượng

“ m hư hỏa vượng” (âm dịch hư tổn, không đủ sức cân bằng, kiềm chế dương khí), khiến “hư hỏa” bốc lên trên, cũng thường hay gây ra loét miệng.

Biểu hiện: miệng đau rát, số vết loét tương đối ít, thường chỉ có 1-2 vết, nhưng dễ tái phát, hoặc vết này khỏi lại sinh vết khác, triền miên không dứt. Vết loét trắng nhợt, niêm mạc chung quanh vết loét chỉ hơi sưng, đỏ nhạt hoặc không đỏ. Chất lưỡi đỏ, khô; rêu lưỡi ít; Mạch tế sác (nhỏ, nhanh).

PQA Tam Hoàng Giải Độc được sản xuất ứng dụng từ bài "Tam Hoàng Giải Độc " có tác dụng thanh nhiệt, lương huyết, giải độc theo cơ chế sau:
- Hoàng Liên: Có tác dụng thanh nhiệt táo thấp, thanh tâm, trừ phiền, tả hỏa, giải độc.
- Hoàng bá: Có tác dụng thanh nhiệt táo thấp, tư âm giáng hỏa, giải độc.
- Hoàng cầm: Có tác dụng thanh nhiệt, táo thấp, tả hỏa giải độc.
- Chi tử: Có tác dụng thanh nhiệt, trừ phiền, lợi tiểu, lương huyết chỉ huyết.

Đối tượng dùng:

- Dùng cho người bị nhiệt miệng, miệng lưỡi phồng rộp, sưng đau, hôi miệng, chảy máu chân răng.

- Người nóng trong, tâm phiền nhiệt, bồn chồn, bứt rứt khó chịu trong người, khó ngủ, ngủ hay mê.

Mỗi đợt dùng đủ từ 1 -2 tháng. Nếu uống chưa đủ 1 -2 tháng mà đã hết nhiệt miệng thì vẫn nên dùng đủ 1 -2 tháng để thanh nhiệt, giải độc, không bị nhiệt miệng trở lại.

Để phòng ngừa bệnh nhiệt miệng, cần chú ý uống nhiều nước vào mùa hè, tránh ăn nhiều đồ “nóng” như chè, cà phê, tỏi, ớt…, các loại quả ngọt như mít, vải, nhãn…, nên ăn nhiều rau và hoa quả. Chú ý giữ vệ sinh răng miệng tốt.

Số GPQC: 2256/2015/XNQC-ATTP

Sản phẩm này không phải là thuốc, không có tác dụng thay thế thuốc chữa bệnh

Ðiều trị giãn dây chằng đầu gối

Thu Vân (Hà Nội)

Khi vận động mạnh, đầu gối dễ bị chấn thương với các tổn thương như giãn dây chằng hoặc đứt dây chằng, rạn rách sụn chêm đầu gối. Ở đầu gối có các dây chằng chéo trước, dây chằng chéo sau, dây chằng bên... Khi bị đứt hoặc giãn dây chằng này bệnh nhân rất đau. Sau một thời gian hết đau thì cảm giác khớp gối lỏng lẻo. Sụn chêm chính là phần bọc ngoài cùng của xương chày và ổ khớp gối. Bình thường, mặt sụn chêm nhẵn, có dịch trơn làm giảm ma sát nên xương chày xoay trơn tru trong ổ khớp. Khi bị rách hoặc rạn, bề mặt sụn không còn trơn mà có rãnh vỡ, nên khi di chuyển không trơn tru nữa mà còn ma sát mạnh gây đau. Chụp Xquang có thể thấy có rạn nứt xương. Chụp cộng hưởng từ có thể thấy mức độ giãn dây chằng, đứt dây chằng, rạn rách sụn chêm.

Khi bị chấn thương dây chằng hay bong gân, không nên dùng các loại cao chườm nóng, vì sẽ làm sưng hơn và đau tăng do dây chằng hoặc cơ bị căng sẽ khó co về trạng thái bình thường. Nên chườm đá lạnh ngay khi bị chấn thương. Nếu giãn dây chằng nhẹ thì sẽ tự hồi phục sau 1 - 2 tháng nhưng hay bị tái phát, nếu tập luyện phục hồi không đúng cách, sụn chêm sẽ bị sưng to và khó co về trạng thái bình thường. Tổn thương phức tạp và kéo dài có thể phải dùng cả phương pháp nội khoa và phẫu thuật để điều trị mới khỏi được. Bạn nên đưa em đi khám và điều trị ở khoa chấn thương chỉnh hình bệnh viện để được chẩn đoán và điều trị đúng.

BS. Trần Văn

Cận thị có gây nhức đầu?

Vậy em có nên uống không và uống như thế nào?

Nguyễn Hồng Đăng(hongdang@gmail.com)

Thực ra tật cận thị không gây nhức mắt, nhức đầu vì mắt thường không cần điều tiết khi nhìn xa hay nhìn gần. Trong khi đó thì tật viễn thị hay loạn thị thường gây nhức đầu do mắt phải điều tiết liên tục khi nhìn cả xa lẫn gần. Do đó, nếu bạn nhức hốc mắt và có cả nhức đầu thì nhiều khả năng có bệnh khác ở mắt hay ngoài mắt nữa. Những người xem tivi nhiều hoặc làm việc với máy tính quá lâu sẽ dễ bị mỏi mắt (kể cả người cận và không cận). Để mắt có thời gian nghỉ ngơi cứ 45 - 60 phút nên nghỉ 5 - 10 phút. Với người có tật khúc xạ, ngoài việc điều chỉnh kính đúng số, người bệnh cũng cần chú ý chế độ ăn giàu vitamin A, vitamin A có trong các loại củ quả màu vàng, đỏ, xanh thẫm... Ngoài ra có thể dùng thêm một số loại thuốc bổ mắt ở dạng dược phẩm theo chỉ định của bác sĩ. Một năm có thể uống 1 - 2 đợt, không nên uống liên tục. Nếu 6 tháng mà độ cận không tăng thì có thể mổ laser chữa cận. Cháu nên khám chuyên khoa mắt để bác sĩ theo dõi và có chỉ định mổ điều trị phù hợp.

BS. Vũ Hồng Ngọc

Nanocapsule

Nhờ ứng dụng công nghệ này, người ta có thể bào chế ra nhiều loại thuốc trên cơ sở cấu trúc nano để có thể tập trung chính xác vào khu vực cơ thể cần dùng đến thuốc.

Thế nào là nanocapsule?

Vi nang nano (nanocapsule - NC) là một loại vi hạt có kích cỡ nanomet được bao bọc bên ngoài bởi những loại polymer không độc tính. Bên trong là một lõi chất lỏng chứa những thành phần quan trọng (như thuốc chẳng hạn).

NC có rất nhiều ứng dụng, trong đó triển vọng nhất là trong các hệ thống đưa thuốc đến đích tác động. Khi được nạp vào NC, các độc tính toàn thân có liên quan đến thuốc sẽ giảm đi rất nhiều, đồng thời sự tập trung thuốc ở vị trí trị liệu cũng tăng lên. Quá trình vi nang hoá sẽ làm tăng hiệu lực, tính đặc hiệu và khả năng hướng đích của thuốc. NC giúp bảo vệ phân tử thuốc khỏi bị phân huỷ quá sớm trong môi trường sinh học nên sẽ làm tăng sinh khả dụng và kéo dài sự hiện diện của thuốc trong máu nhằm tạo điều kiện cho thuốc được hấp thu hiệu quả vào bên trong tế bào. Các NC có thể sẽ nhanh chóng bị thanh thải ra khỏi cơ thể bởi hệ thống thực bào đơn nhân (mononuclear phagocytic system - MPS). MPS sẽ nhận diện NC là các cấu tử ngoại lai và nhanh chóng loại bỏ chúng ra khỏi hệ tuần hoàn. Tuy nhiên, bề mặt của các NC có thể được biến đổi để ngăn cản quá trình thực bào xảy ra. Ngoài ra, sự biến đổi bề mặt của các NC cũng làm tăng khả năng chọn lọc và phân phối thuốc đến đích tác động. Các bề mặt này có thể được gắn với những phân tử đánh dấu hoặc các polymer thân nước. Việc thiết kế nên các NC có xét đến đích tác động và đường dùng thuốc sẽ giải quyết được những vấn đề mà bản thân phân tử thuốc trị liệu gặp phải.

Có rất nhiều phương pháp tổng hợp NC. Những phương pháp được lựa chọn phụ thuộc vào cấu trúc hoá học của tác nhân trị liệu, loại ứng dụng và thời gian cần để lưu lại bên trong cơ thể.

Ống nano carbon với những ứng dụng tiềm năng trong bào chế dược phẩm.

Ống nano carbon với những ứng dụng tiềm năng trong bào chế dược phẩm.

Một số loại vi nang nano trong công nghệ bào chế dược phẩm

Liposome: Đây là những túi nhỏ hình cầu có lớp màng kép chứa phospholipid bao bọc bên ngoài. Dạng NC này được sử dụng rất phổ biến trong các hệ thống đưa thuốc cũng như phân phối gene trị liệu. Liposome giúp bảo vệ các tác nhân trị liệu tránh phân huỷ và đưa được chúng đến vị trí tác động. Ngoài ra, liposome còn dễ dàng được gắn với các phân tử đánh dấu để có thể phân phối thuốc hướng đích. Liposome được tổng hợp từ các lipid mang điện hoặc trung tính bằng một số phương pháp vi nang hoá như ép đùn màng polycarbonate, đồng hoá dưới áp suất cao, bốc hơi pha đảo, sử dụng siêu âm hay ép đùn thuỷ hoá màng lipid sử dụng sóng siêu âm. Hiện tại có rất nhiều loại thuốc khác nhau được vi nang hoá tạo ra dạng NC liposome bao gồm các thuốc kháng ung thư như methotrexate, doxorubicin, N-butyldeoxynojirimycin; ciproflaxacin, clotrimazole, tretinoin.

Micelle trùng hợp: Micelle trùng hợp hay micelle polymer (polymeric micelle) được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu nhằm tạo ra những chất mang thuốc có cấu trúc nano do chúng có kích thước nhỏ và độ ổn định cao. Các micelle được phân làm 3 loại gồm: thân nước, thân dầu và phức hợp polyion. Chúng được điều chế bằng một số kỹ thuật thông dụng như tách dung môi, thẩm phân, đúc khuôn dung dịch (solution casting). Một số tác nhân trị liệu đã được vi nang hoá bằng phương pháp này để làm tăng độ tan và tác dụng điều trị, bao gồm doxorubicin (micelle pluronic), paclitaxel, camptothecin, oxaliplatin, β-lapachone, amphotericin B, geldanamycin, andriamycin, cyclosporin A, rapamycin và một số dạng chế phẩm chứa gene vi khuẩn.

Ống nano carbon: Ống nano carbon (carbon nanotube - CNT) là một loại phiến graphite được cuộn lại thành khối hình trụ có các mạng lưới liên kết đặc trưng. CNT với kích thước cỡ nano được ứng dụng rộng rãi trong các ngành công nghiệp sử dụng công nghệ nano mà gần đây nhất là công nghệ bào chế dược phẩm. CNT được tổng hợp bởi nhiều phương pháp bao gồm: phóng điện hồ quang, cắt bằng laser, phản ứng tự oxy hoá khử carbon monoxide, ngưng tụ hơi và phương pháp thuỷ nhiệt. Hiện tại, có nhiều loại thuốc khác nhau có thể được vi nang hoá bên trong cấu trúc rỗng hoặc trong các khoang của CNT để làm tăng hiệu lực tác dụng và tăng độ tan như acid folic, doxorubicin, paclitaxel, 10-hydroxycamptothecin, carboplatin.

Dendrimer: Dendrimer là một loại đại phân tử polymer có nhiều nhánh, đối xứng và dạng cầu 3 chiều với các hạt có cùng kích cỡ và phân tử lượng được xác định rõ. Trong các hệ thống đưa thuốc, dendrimer có thể được sử dụng để vi nang hoá các tác nhân trị liệu vào bên trong cấu trúc hoặc liên hợp với chúng trên bề mặt. Dendrimer có chứa 3 thành phần cơ bản bao gồm lõi, nhánh và các thành phần bề mặt. Chúng được điều chế bằng hai phương pháp cơ bản là phân kỳ và hội tụ, ngoài ra, còn có thêm một phương pháp khác là phương pháp hội tụ giai đoạn kép. Những loại thuốc được vi nang hoá sử dụng dendrimer bao gồm doxorubicin, paclitaxel, 10-hydroxy camptothecin, 7-butyl-10-aminocamptothecin, flurbiprofen, ibuprofen.

Tiểu phân nano từ tính

Các tiểu phân nano từ tính (magnetic nanoparticles - MNP) đã được các nhà khoa học quan tâm rất nhiều trong 2 thập kỷ qua trong các lĩnh vực lưu trữ dữ liệu và y sinh học. Bề mặt từ tính của các MNP cho phép chúng có thể gắn kết và truyền từ tính cho các phân tử chức năng. Điều này có thể giúp lôi kéo và vận chuyển các phân tử này đến cơ quan đích mong muốn bằng cách điều chỉnh từ trường sinh ra. Mỗi MNP được cấu tạo gồm 3 phần: lõi từ, lớp phủ bề mặt và lớp chức năng bên ngoài. Những tác nhân trị liệu được áp dụng phương pháp này để tạo ra các dạng chế phẩm hướng đích bao gồm doxorubicin, 5-FU, curcumin và methotrexate.

DS. Trần Thái Sơn

Viêm ruột hoại tử cấp tính ở trẻ em và cách phòng ngừa

Trẻ bị viêm ruột hoại tử có thể bị các biến chứng như: thủng ruột, viêm phúc mạc, tắc ruột dẫn đến tử vong.

Viêm ruột hoại tử là một cấp cứu nội khoa và ngoại khoa đường tiêu hóa thường gặp nhất ở trẻ sơ sinh non tháng. Ngay với trẻ sinh đủ tháng cũng có thể mắc bệnh này nhưng tỷ lệ ít hơn. Bệnh viêm ruột hoại tử cấp tính ở trẻ em gặp nhiều vào mùa hè và mùa thu. Các dấu hiệu của bệnh là:

Đau bụng: Trẻ mắc bệnh mới đầu đau bụng nhẹ, sau đó nặng dần và kéo dài, dữ dội từng cơn. Thường đau ở quanh rốn hoặc vùng bụng trên.

Nôn: Sau khi xuất hiện đau bụng khá lâu, trẻ có thể buồn nôn. Thứ nôn ra là chất hòa tan trong dạ dày, có thể chứa mật gan, nặng có thể nôn ra chất giống màu như cafe.

Dấu hiệu vùng bụng: Vùng bụng của trẻ mắc bệnh thời kỳ đầu mức nhẹ là trướng hơi, mềm, có thể đau nhẹ, nhưng không có điểm đau nhất định. Cùng với trướng bụng, sau đó có thể xuất hiện điểm đau nhất định. Lớp cơ thành ruột thời kỳ cuối hoại tử chảy máu, chức năng vận động đường ruột trở ngại dẫn đến ruột tê liệt, tiếng kêu của ruột giảm hoặc mất hẳn. Khi ruột hoại tử mạnh hơn hoặc ruột thủng lỗ, xuất hiện triệu chứng viêm màng bụng, lúc đó đau bụng dữ dội, trướng bụng rõ rệt, cơ bụng tăng, đau ép và đau quặn người, đây là dấu hiệu bệnh rất nặng.

Đi ngoài và đại tiện ra máu: Sau khi đau bụng khá lâu, xuất hiện đi ngoài, phân loãng màu vàng hoặc giống canh trứng, số lần không ổn định. Sau đó niêm mạc chảy máu, hoại tử chuyển thành phân có máu, có màu đỏ sẫm dạng sánh hoặc dạng canh màu đỗ đỏ, có khi có chất hoại tử màu trắng xám, mùi hôi, rất tanh, có thể có ít dịch nhờn, không mủ. Nếu bệnh nhẹ, niêm mạc ruột hoại tử chảy máu ít, vì thế phân không thấy có máu, nhưng phân tích máu ẩn trong phân cho thấy dương tính cao.

Mất nước và mất máu: Khi bệnh tiến triển nặng dần, thường phát sinh mất nước, dung lượng máu giảm, natri thấp, kali thấp và trúng độc axit, khiến bệnh nguy hiểm hơn.

Triệu chứng nhiễm độc trong máu: Do sự hấp thụ của thành ruột hoại tử và chất độc, đa số trẻ em mắc bệnh ban đầu bị sốt, tinh thần sa sút bất an hoặc thèm ngủ, sắc mặt nhợt nhạt. Bệnh nặng lên nhanh chóng, thường từ 1-2 ngày sau khi phát bệnh, xuất hiện triệu chứng độc trong máu nghiêm trọng và ngất, nếu không kịp thời cấp cứu người bệnh rất nhanh tử vong.

Các yếu tố và nguyên nhân gây bệnh

Nhiều yếu tố như thiếu máu cục bộ đường tiêu hóa hoặc tổn thương tái tưới máu, yếu tố nhiễm trùng. Có bằng chứng về sự phát tán vi khuẩn vào máu gây nên triệu chứng toàn thể. Biểu hiện ban đầu không đặc hiệu. Biểu hiện về sau nằm trong bối cảnh bệnh nặng giống nhiễm trùng và hội chứng đáp ứng viêm hệ thống. Viêm ruột hoại tử sơ sinh thường gặp ở trẻ non tháng, cân nặng thấp. Bệnh liên quan tới nhiều vấn đề: nuôi dưỡng đường ruột; trẻ suy hô hấp kéo dài, giảm lưu lượng máu ở hệ thống tạng (ngạt, đa hồng cầu), trong bệnh nhiễm trùng, bệnh tim bẩm sinh, bất thường chuyển hóa hoặc có quá trình phát triển bào thai bất thường.

Bệnh xảy ra như thế nào?

Viêm ruột hoại tử là một bệnh đường ruột cấp tính, nó có thể phá hủy các mô của niêm mạc ruột. Khi trẻ non tháng sinh ra, cơ thể yếu, các cơ quan có thể chưa hoàn thiện, do vậy trẻ dễ bị suy hô hấp sau sinh. Cho trẻ ăn sữa ngoài không đúng cách, số lượng sữa tăng nhanh, vi khuẩn hoặc các virut xâm nhập vào đường ruột tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp gây bệnh, tổn thương thường khu trú ở ruột non nhất là đoạn hỗng tràng. Tổn thương có thể từ vài centimét đến suốt cả chiều dài ruột non. Tổn thương vi thể dưới dạng phù nề, xuất huyết, hoại tử, có thâm nhập bạch cầu đa nhân. Dẫn đến các biến chứng: thủng ruột, viêm phúc mạc, tắc ruột.

Thông thường, bệnh xuất hiện khi trẻ đang được cho ăn qua đường miệng với tiến triển tốt. Biểu hiện ban đầu hay gặp nhất là sự kém dung nạp thức ăn, trẻ có những biểu hiện khác thường. Ứ trệ dịch dạ dày là triệu chứng sớm. Tuy nhiên, đôi khi bệnh cũng khởi phát rầm rộ, đột ngột bằng dấu hiệu suy sụp tuần hoàn.

Dấu hiệu điển hình: triệu chứng tiêu hóa và toàn thân nặng. Triệu chứng tiêu hóa: ọc sữa, tiêu phân đen, vàng da, bụng trướng. Triệu chứng toàn thân: trẻ lờ đờ bỏ bú, suy kiệt. Trong trường hợp bệnh nặng có thể có xuất huyết dưới da.

Chẩn đoán viêm ruột hoại tử ở trẻ dựa vào chất nôn, dịch dạ dày và phân của trẻ. Trẻ bị viêm ruột hoại tử sẽ được nuôi dưỡng tĩnh mạch hoàn toàn, theo dõi lâm sàng bằng hút dịch dạ dày, nếu dịch dạ dày trong sẽ bắt đầu tập cho ăn trở lại với tốc độ không được vượt quá 20ml/kg/ngày. Khi nghi ngờ mắc bệnh này phải ngừng cho trẻ ăn, đồng thời nhanh chóng đưa bệnh nhân tới bệnh viện chữa trị. Khi cần có thể xem xét tới phương pháp phẫu thuật ngoại khoa, cắt bỏ đoạn ruột bị bệnh, cứu tính mạng của trẻ.

Biện pháp dự phòng

Cần có chiến lược cụ thể về điều trị và chăm sóc chu đáo, nhằm giúp cho thai nhi trong thời gian ở trong bụng mẹ có sức khỏe tốt và phát triển phù hợp với từng giai đoạn bào thai, tránh để xảy ra tình trạng sinh non tháng.

Bé sinh ra dù nhẹ cân, thiếu tháng hay đủ tháng nhất thiết phải được bú sữa mẹ ngay những giờ đầu sau sinh, khuyến khích các bà mẹ cách cho con bú sữa mẹ hoàn toàn ngày - đêm. Để có được nguồn sữa mẹ dồi dào, các bà mẹ cần ăn đầy đủ dinh dưỡng, chú trọng nhất là chất đạm ăn tăng hơn 60% so với bữa ăn hàng ngày về đạm, đồng thời phải được nghỉ ngơi, ngủ đủ giấc. Khi mẹ ngủ, đó là lúc thời gian các tuyến sữa tiết sữa nhiều nhất.

Để phòng bệnh viêm ruột hoại tử cho trẻ cần giảm tối đa các nguy cơ khác liên quan đến sản khoa: sinh ngạt, suy hô hấp sau sinh. Cho trẻ bú sữa mẹ sớm vì sữa mẹ là sữa duy nhất làm giảm nguy cơ viêm ruột hoại tử nhất là trẻ đẻ non tháng. Cho trẻ đẻ non ăn từ từ từng bữa lượng nhỏ điều chỉnh tốt thời gian và số lượng cho bữa ăn tăng dần không quá 20ml/kg/ngày.

BS. Lê Anh

Điều trị nấm móng như thế nào cho đúng cách?

Vậy tôi xin hỏi, nguyên nhân, triệu chứng và điều trị như thế nào cho là đúng cách?

(Thanh Tiến - Tiền Giang)

Bệnh nấm móng, ngày nay vẫn còn là vấn đề y khoa phổ biến, là bệnh mãn tính với nhiều biểu hiện khác nhau và lây trực tiếp từ móng này sang móng khác, từ người này sang người khác, điều trị thường kéo dài và dễ tái phát.

Điều trị nấm móng như thế nào cho đúng cách?Ảnh minh họa

Về nguyên nhân và biểu hiện của bệnh thường đa dạng và phức tạp, vì nguyên nhân gây ra với nhiều loại nấm khác nhau, như nấm dermatophyte, nấm Candida, nấm mốc có tên khoa học là Seopulariopsis và Hendersonula. Ở giai đoạn sớm bệnh thường nhẹ; nếu để lâu sẽ tổn thương móng sẽ trầm trọng hơn và thường bệnh không tự khỏi, có thể tồn tại hàng chục năm, lây lan từ móng này sang móng khác, nếu để lâu sẽ lan hết các móng kể cả móng tay và móng chân. Nếu nhiễm ở phần bên và phần xa dưới móng là dạng phổ biến nhất gây loạn dưỡng móng, thường do vi nấm dermatophyte, đôi khi cũng nhiễm thêm nấm mốc thứ phát. Nếu tổn thương trắng trên bề mặt móng là dạng đặc trưng của nhiễm dermatophyte do Trichophyton mentagrophytes. Nếu nhiễm ở phần gốc dưới móng mà xuất phát từ phần gần của móng và thường là thứ phát của viêm quanh móng mãn tính là do vi nấm hẹt men Candida. Trường hợp loạn dưỡng toàn móng là một dạng biểu hiện loạn dưỡng móng sau cùng với tổn thương toàn bộ móng, là hậu quả của nhiễm các dạng nấm đã nêu trên.

Về điều trị, trước kia còn gặp nhiều khó khăn, nhưng ngày nay nhờ những tiến bộ của y học, nên nấm móng đã không còn là vấn để khó khăn nữa. Việc điều trị nhất thiết phải điều trị đúng cách tức là tuân thủ điều trị theo phác đồ, tức là điều trị đúng thuốc và đủ thời gian. Thuốc dùng hiện nay là Itraconazole với tên thương mại là Canditral, Sporal, uống với phác đồ, áp dụng cho người đã trưởng thành uống với liều 200mg x 2 lần trong ngày, uống trong tuần, nghỉ 3 tuần, sau đó lặp lại 1 tuần như trên, nếu là nấm móng tay, nếu là móng chân thì lặp lại thêm đợt tiếp theo, tức là 2 đợt cho móng tay và 3 đợt cho móng chân.

Về điều trị tại chỗ, cần loại bỏ phần móng nhiễm bệnh bằng cách cắt hoặc cạo, sau đó dùng thuốc bôi tại chỗ cho đến khi móng mọc trở lại, thuốc thoa thường dùng hiện nay là Clortrimazole với tên thương mại là Canesten, Candid hay Terbinafine HCl với tên thương mại là Lamisil, Hifen Cream. Ngoài thuốc thoa tại chỗ, thuốc uống là không thể thiếu được, quyết định cho sự lành bệnh. Sau thời gian điều trị đúng thuốc đủ phát đồ thì bệnh sẽ lành, tuy nhiên vì là móng nên phải có thời gian móng mọc ra và phát triển từ từ thường là sau 3 - 6 tháng điều trị mới nhận thấy hiệu quả điều trị.

BS.CKI.TRẦN QUỐC LONG

Tuân thủ điều trị bằng thuốc, thay đổi lối sống để phòng các bệnh lý tim mạch

Theo thống kê năm 2002 chỉ có 2,7 % bệnh nhân Đái tháo đường tuýp 2 đến năm 2012 lên đến 5,4% theo ước lượng được Hội tim mạch và Hội đái tháo đường đưa ra. Nhưng THA tăng hơn nhiều, hiện nay chúng ta có tối thiểu là 30% người trưởng thành THA, và thực tế cứ 3 người thì có 1 người THA.

GS. Tuấn cũng nhấn mạnh, tuy nhiên những số liệu như trên đã cũ, bởi theo khuyến cáo của Hội Tim mạch Hoa Kỳ mới đưa ra năm 2017 về phòng ngừa, phát hiện, đánh giá và điều trị tăng huyết áp thì tỷ lệ người THA còn tăng hơn nhiều.

Nếu như trước đây con số 140/90 là mốc để chẩn đoán tăng huyết áp được Ủy ban liên hiệp quốc gia Hoa Kì khuyến cáo từ năm 1988 (JNC IV) đã được duy trì trong suốt thời gian qua. Thì hiện nay theo khuyến cáo mới mức THA hiện nay là 130/80. Theo đó, ở Hoa Kỳ hơn 30% người trưởng thành 20 tuổi trở lên THA với mức là 140/90mm, nhưng nếu mức mới là 130/80 thì Hoa Kỳ có 46% người trưởng thành THA, như vậy thay đổi mức của THA làm tăng 144% số người mắc THA và tỷ lệ tương tự Việt Nam chúng ta có 45% người trưởng thành THA .

“Đây là một con số khủng khiếp, tất cả những con số THA đều có yếu tố nguy cơ quan trọng suy tim giai đoạn cuối, bệnh tim mạch chuyển hóa”, GS.Tuấn nói.

Ăn uống lành mạnh, tập luyện thưỡng xuyên để phòng tránh các bệnh lý tim mạch

Suy tim là hậu quả cuối cùng của một loạt bệnh lý như tăng huyết áp, đái tháo đường, bệnh lý mạch vành, bệnh nhân thường kèm theo bệnh phức tạp khác như COPD, các bệnh lý lây nhiễm, bệnh van tim do thấp...

Theo đó, các chuyên gia tim mạch cũng nhấn mạnh vai trò của các biện pháp không dùng thuốc như giảm cân nặng, chế độ ăn lành mạnh, giảm muối, tăng cung cấp kali, tăng hoạt động thể lực và uống rượu mức độ vừa phải.

Thay đổi lối sống là biện pháp được ưu tiên hàng đầu. Các đích điều trị thay đổi, huyết áp mục tiêu của các nhóm bệnh nhân như đái tháo đường, suy tim, suy thận… đều là <130/80 mmHg. Điều này đồng nghĩa với việc các bệnh nhân cần phải tăng tuân thủ điều trị bằng thuốc và tích cực thay đổi lối sống hơn nữa. Vì vậy, để phòng tránh tăng huyết áp, hãy ăn uống lành mạnh và tập luyện thường xuyên ngay hôm nay.

Trước đó, tại chương trình đào tạo liên tục về suy tim và quản lý bệnh nhân suy tim, PGS.TS Phạm Mạnh Hùng Viện trưởng Viện Tim mạch VN – Tổng thư ký Hội Tim mạch học VN cũng cho biết, độ tuổi suy tim hiện nay có xu hướng thấp hơn các nước đang phát triển, suy tim xảy ra ở bất kỳ tuổi nào, thậm chí từ khi sinh ra nếu không điều trị dễ dẫn đến bệnh lý nặng hơn. Thông thường bệnh nhân suy tim nhập viện khá muộn, chỉ khi khó thở tưởng như không thở được họ mới chịu đi khám....Mặc dù đã có nhiều tiến bộ trong điều trị suy tim nhưng theo PGS. Hùng, đây vẫn là một bệnh tiến triển với bệnh suất và tử suất cao. Dự báo số lượng bệnh nhân suy tim sẽ còn tiếp tục tăng do tuổi thọ người dân ngày càng cao; tăng các yếu tố nguy cơ và số bệnh nhân sống sót sau can thiệp mạch vành tăng.

Suy tim hiện vẫn đang là gánh nặng toàn cầu (với 1-2% dân số thế giới bị suy tim – tương đương khoảng 26 triệu người mắc bệnh); tỉ lệ mắc suy tim tăng theo tuổi ở cả hai giới. Riêng khu vực Đông Nam Á có tỉ lệ suy tim cao do đây là khu vực đa dạng về văn hóa xã hội và lịch sử độc đáo và do là khu vực có tốc độ phát triển dân số nhanh, lên tới >600 triệu người, phần đông là dưới 65 tuổi. Ở VN, tuy chưa có thống kê chính thức nhưng ước tính có khoảng 320.000 đến 1,6 triệu người mắc bệnh suy tim, ước tính 1-1.5% dân số.

PV

5 cách giúp tăng cường trí nhớ

Trí nhớ có vai trò rất quan trọng trong đời sống tâm lý của con người, là điều kiện để con người lưu giữ kỷ niệm, tích lũy kinh nghiệm sống và sử dụng chúng tốt hơn trong mọi hoạt động. Nhưng trí nhớ lại giảm dần theo tuổi. Tuy nhiên, vẫn còn có những biện pháp có thể giúp duy trì và tăng cường trí nhớ nếu biết áp dụng và luyện tập thường xuyên…

Chế độ ăn

Não cũng giống như cơ thể cần nhiên liệu để hoạt động. Do vậy, việc sử dụng các thực phẩm phù hợp và tránh những cách dùng thực phẩm sai lầm có thể là chiến lược hiệu quả để cung cấp đủ nhiên liệu cho não. Chế độ ăn uống Địa Trung Hải được xếp là một trong những chế độ ăn uống lành mạnh nhất hành tinh. Nó dựa trên lượng trái cây, rau, ngũ cốc nguyên hạt, đậu, chất béo lành mạnh - chẳng hạn như dầu ôliu, các loại hạt, cá và protein nạc. Nhiều nghiên cứu tại Mỹ chỉ ra rằng, chế độ ăn uống Địa Trung Hải ngăn ngừa các bệnh mạn tính nguy hiểm và kéo dài tuổi thọ. Nó cũng được chứng minh có tác dụng tích cực, lâu dài để bảo vệ trí nhớ, khả năng học tập cũng như chống suy giảm nhận thức. Bên cạnh đó, chế độ ăn Ketogenic cũng được chú ý khi nó làm giảm đáng kể lượng carbohydrate và thay thế bằng chất béo khiến cơ thể chuyển sang trạng thái chuyển hóa được gọi là ketosis. Ketosis làm tăng hiệu quả của cơ thể trong việc đốt chất béo cho năng lượng và tạo ra xeton từ chất béo trong gan, cung cấp năng lượng cho não.

Một số loại thực phẩm cũng đã được các nhà nghiên cứu trên khắp thế giới ca ngợi là chất làm tăng trí nhớ như quả óc chó, cải xoăn, rau bina, cacao và socola, quế, trà hoa cúc, quả việt quất…

Thực hiện chế độ ăn Địa Trung Hải giúp tăng cường trí nhớ.

Thực hiện chế độ ăn Địa Trung Hải giúp tăng cường trí nhớ.

Vận động cơ thể

Tập thể dục làm tăng lượng ôxy và hiệu quả các chất hữu ích trong não, giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch và tiểu đường, một trong những nguyên nhân dẫn đến mất trí nhớ, đồng thời làm giảm các hormone gây căng thẳng. Trong một phân tích điều tra sức khỏe của não ở người trên 50 tuổi, các nhà nghiên cứu của Mỹ nhận thấy rằng, tập aerobic cải thiện khả năng nhận thức, tăng cường trí não. Nguyên nhân là do một số hormon đặc biệt tăng lên trong quá trình tập luyện, được gọi là yếu tố tăng trưởng, giúp cải thiện trí nhớ thông qua vùng hồi hải mã Hippocampus, vùng não phụ tách học tập và ghi nhớ. Ngoài aerobic, cưỡi ngựa đã được chứng minh là cải thiện khả năng nhận thức của trẻ và múa có thể làm đảo ngược các dấu hiệu lão hóa của não do tuổi tác.

Ngủ trưa

Giấc ngủ có thể là một cách dễ dàng để cải thiện và duy trì trí nhớ. Một nghiên cứu được thực hiện tại Mỹ với những người tham gia ngủ giữa các buổi học và không ngủ. Kết quả cho thấy, những người ngủ trưa có thể nhớ 10 đến 16 từ trong bài kiểm tra trí nhớ, trong khi những người không ngủ chỉ nhớ lại 7,5 từ. Các nghiên cứu khác cũng cho thấy ở người lớn từ 65 tuổi trở lên, ngủ trưa một giờ đồng hồ cải thiện hiệu quả của các bài kiểm tra nhận thức so với những người không ngủ trưa.

Những người ngủ trưa ngắn hơn hoặc lâu hơn hoặc những người không ngủ trưa có sự suy giảm khả năng nhận thức khoảng 5 năm so với tuổi thật của họ. Do vậy, để giúp duy trì khả năng ghi nhớ và hoạt động của não, mỗi người nên duy trì tốt số giờ ngủ hàng ngày, tốt nhất nên có giấc ngủ ngắn vào buổi trưa.

Luyện tập não

Có những kỹ thuật có thể sử dụng để giúp bạn học cách mã hóa và ghi nhớ thông tin quan trọng. Chúng được gọi là các phương sách giúp trí nhớ. Các phương pháp ghi nhớ bao gồm phương pháp về địa điểm, đòi hỏi bạn phải tưởng tượng các mục muốn ghi nhớ dọc theo một con đường quen thuộc, liên kết các từ hoặc khái niệm với một trong các vị trí trên đường để làm cho chúng dễ nhớ hơn. Bên cạnh đó, từ viết tắt có thể được sử dụng như một công cụ để ghi nhớ bất cứ thứ gì từ màu sắc của cầu vồng đến các mục trong danh sách mua sắm. Chẳng hạn, bạn có thể sử dụng từ viết tắt “CAKE” để giúp bạn nhớ rằng bạn cần phải mua phô mai (Cheese), táo (Apple), cải xoăn (Kale) và trứng (Egg) từ siêu thị. Nhịp điệu cũng là một biện pháp giúp ghi nhớ tốt như nhịp của một bài thơ hay bài hát. Chunking là một cách để chia nhỏ các thông tin lớn thành những phần nhỏ hơn, dễ quản lý hơn, chẳng hạn như chia các số điện thoại thành ba phần thay vì cố gắng nhớ tất cả 10 chữ số riêng biệt. Hình ảnh có thể giúp ghi nhớ các cặp từ, chẳng hạn như nước xanh, ánh nắng vàng và cỏ xanh. Bằng cách nhớ lại một hình ảnh cụ thể, nó có thể giúp nhớ lại thông tin mà chúng ta liên kết với hình ảnh đó.

Vui vẻ và thư giãn

Căng thẳng mạn tính có ảnh hưởng bất lợi lên não. Theo thời gian, căng thẳng tiêu diệt các tế bào não, gây tổn thương vùng Hippocampus và liên quan đến mất trí nhớ. Do đó, quản lý căng thẳng có thể là một trong những cách tốt nhất để bảo vệ trí nhớ của bạn. Thiền và nghe nhạc có thể là các chiến lược hiệu quả để giảm bớt căng thẳng và làm giảm mất trí nhớ sớm ở người cao tuổi bị suy giảm nhận thức. Trong một nghiên cứu tại Mỹ, thiền và nghe nhạc trong thời gian 3 tháng cải thiện đáng kể chức năng bộ nhớ chủ quan và hiệu suất nhận thức khách quan. Chỉ cần 25 phút thiền và nghe nhạc mỗi ngày đã được chứng minh là có ảnh hưởng tích cực đến tâm trạng và tăng cường chức năng não cũng như khả năng nhận thức.

Bên cạnh đó, một số sở thích đặc biệt như chụp ảnh, thư giãn với hương thơm… cũng có thể giúp cải thiện trí nhớ. Môt nghiên cứu thực hiện tại Mỹ với những đứa trẻ tham gia vào một trò chơi ghi nhớ ở trong hai phòng khác nhau. Kết quả cho thấy, những đứa trẻ ở trong phòng có hương hoa lan đạt điểm số cao hơn đáng kể so với trẻ em ở trong căn phòng không mùi vị.

Lê Mỹ Giang

(Theo medicalnewstoday)

Nguyên nhân gây hở van tim

Xin hỏi bác sĩ cháu có nhất thiết phải thay van tim? Thời niên thiếu cháu hay viêm amidan, liệu đây có phải là nguyên nhân gây bệnh tim?

Nguyễn Quỳnh Hương (quynh huong@gmail.com)

Những tổn thương hẹp hở van tim là di chứng, là hậu quả của viêm nội tâm mạc trong thấp tim cấp tính nên y học gọi là bệnh van tim hậu thấp. Đây là bệnh van tim mắc phải, xảy ra sau viêm họng, amidan do liên cầu khuẩn beta tan máu nhóm A. Đặc điểm của các van tim là do lớp nội tâm mạc (màng mỏng bao phủ toàn bộ mặt trong buồng tim và các lá van) khi bị viêm gây sưng nề trong các đợt cấp và sau nhiều lần tái đi tái lại làm cho các lá van và dây chằng xù xì, xơ, dày cứng dính nhau nên khi tim cần đóng kín van thì các lá van không khép kín gọi là hở van tim. Trên lâm sàng có thể gặp chỉ hẹp hoặc hở van đơn thuần nhưng nhiều khi do van có nhiều biến đổi cấu trúc nên bị phối hợp cả hẹp và hở. Hậu quả của hẹp, hở van tim là suy tim. Bệnh của cháu đã được chẩn đoán hở van mà tiền sử thời niên thiếu cháu có viêm họng, amidan mà không điều trị triệt để. Vấn đề là ngay bây giờ cháu phải đi khám tại trung tâm tim mạch hoặc Viện Tim mạch Quốc gia để điều trị tích cực, nếu để muộn sẽ dẫn đến biến chứng suy tim. Hiện nay, bệnh van tim hoàn toàn có thể chữa khỏi, tùy trường hợp tổn thương mà bác sĩ sẽ quyết định mổ kín, vá van hay mổ hở có máy tim phổi nhân tạo nhằm thay van cơ học hay sinh học.

BS. Trần Kim Anh

Cảnh báo biến chứng xơ gan do viêm gan virus

Tưởng virus nằm yên không ngờ tiến đến xơ gan

Anh Nguyễn Huy C (Hà Nội) vốn là một giáo viên dạy Tiếng Anh, thế nhưng vừa rồi anh phải nghỉ dạy hè để nhập viện điều trị, vì viêm gan virus đã có biến chứng chớm xơ gan. Trước đây, anh C. bị viêm gan virus B thể không hoạt động. Thấy bác sĩ không kê đơn thuốc, mà chỉ dặn dò thực hiện chế độ ăn uống sinh hoạt hợp lý, nên anh nghĩ chắc không nghiêm trọng, không cần khám lại. Không ngờ, bẵng đi một thời gian, anh thấy mệt mỏi, chán ăn, đi khám thì phát hiện nồng độ virus đã lên tới 10^6 và đã bị chớm xơ gan.

Còn cô Nguyễn Thị Nh (Hà Tĩnh), trước đây bị viêm gan virus B và đã điều trị virus viêm gan về dưới ngưỡng phát hiện. Nhưng mới đây, cô có nhiều triệu chứng như mệt mỏi, chán ăn... Chỉ đến khi đi khám mới hay virus hoạt động trở lại và gây xơ gan. Nguyên nhân chủ yếu do cô lao động quá sức, sinh hoạt thiếu điều độ.

Viêm gan virus B có thể biến chứng thành bệnh xơ gan nguy hiểm (ảnh minh họa)

Theo phân tích của GS.TS.TTND. Nguyễn Văn Mùi (Chuyên gia đầu ngành truyền nhiễm) cho hay: khi phát hiện bị viêm gan b thể không hoạt động hoặc đã điều trị virus viêm gan về dưới ngưỡng phát hiện, nhiều người thường chủ quan vì nghĩ rằng sẽ không gây nguy hiểm cho gan, không ảnh hưởng sức khỏe. Trên thực tế, virus viêm gan có thể bùng phát trở lại bất kì lúc nào, khi có sự kích thích từ tác nhân gây hại bên ngoài hoặc hệ miễn dịch suy yếu. Khi virus đã bùng phát trở lại, nó có thể làm bệnh viêm gan trở nên trầm trọng hơn và có thể dẫn đến những biến chứng nguy hiểm như xơ gan, ung thư gan...

Chính vì vậy, những người bị viêm gan virus dù là thể không hoạt động hoặc đã điều trị virus về dưới ngưỡng phát hiện cũng không được chủ quan, đề phòng nguy cơ virus tái hoạt động trở lại gây suy giảm chức năng gan hoặc các biến chứng nguy hiểm.

Giải pháp toàn diện ngăn ngừa biến chứng xơ gan

Theo GS.TS. Nguyễn Văn Mùi: “Đối với viêm gan virus thể hoạt động, cần tuân thủ phác đồ điều trị để ức chế virus, kết hợp sử dụng các sản phẩm thảo dược như cà gai leo để chống viêm, chống xơ gan. Đối với những trường hợp virus không hoạt động hoặc về dưới ngưỡng phát hiện, phải theo dõi thường xuyên, cũng như sử dụng các biện pháp ức chế virus, tăng cường chức năng gan từ cà gai leo”.

Cây cà gai leo được chứng minh giúp ức chế virus viêm gan, chống xơ gan

Các nghiên cứu khoa học đã chứng minh, cà gai leo là dược liệu quan trọng trong hỗ trợ điều trị viêm gan virus, ức chế virus và bảo vệ gan khỏi xơ hóa. Tuy nhiên, giữa thiên biến vạn hóa của nguồn dược liệu, người bệnh cần chọn mua sản phẩm được sản xuất từ nguồn nguyên liệu sạch đúng chuẩn mới mang lại hiệu quả cao.

Theo ThS. Đào Quang Trung (chuyên gia độc lập về tiêu chuẩn GACP) cho hay: cà gai leo nếu không trồng đúng chuẩn có thể dẫn đến tình trạng lai tạp, hàm lượng hoạt chất không cao, tồn dư đạm, thuốc trừ sâu, hóa chất độc hại do quá trình chăm bón, khi dùng không những không có tác dụng chữa bệnh, mà còn đặc biệt nguy hiểm cho lá gan đối với những người bị viêm gan virus... Do đó, việc triển khai chuẩn hóa vùng trồng cà gai leo theo tiêu chuẩn GACP (Thực hành tốt trồng trọt và thu hái cây thuốc của Tổ chức Y tế Thế giới) là rất cần thiết.

Dấu hiệu nào để nhận biết sản phẩm từ cà gai leo sạch

Ở nước ta, việc trồng dược liệu áp dụng theo tiêu chuẩn dược liệu sạch đòi hỏi phải tuân thủ những quy định rất nghiêm ngặt, nên không có nhiều đơn vị thực hiện được. Tuy nhiên, hiện nay, đã có công ty TNHH Tuệ Linh triển khai được gần 15ha vùng trồng Cà gai leo tại xã Mỹ Thành, Mỹ Đức, Hà Nội đạt tiêu chuẩn GACP.

Vùng trồng Cà gai leo sạch đạt tiêu chuẩn GACP-WHO tại Mỹ Thành, Mỹ Đức, Hà Nội

Đây là vùng trồng được sự hỗ trợ của dự án BioTrade do Liên minh châu u tài trợ, đảm bảo các nguyên tắc an toàn, bền vững ngay từ đầu vào đến sản phẩm ra thị trường. Tất cả các khâu của quy trình được kiểm soát nghiêm ngặt từ: cây giống đảm bảo thuần chủng, không bị lai tạp và nhân giống trong nhà màng. Khi phát triển, cây được trồng với quy trình bài bản: phủ màng bảo vệ cây để không bị cỏ xâm lấn, luống cao, đất tơi xốp nhằm bảo vệ bộ rễ không ngập úng, sử dụng phân hữu cơ và đậu tương thay vì phân hóa học và thuốc bảo vệ thực vật...

“Khi thăm vùng trồng Cà gai leo tại Mỹ Đức, tôi khá thích thú và phấn khởi với một vùng trồng rộng lớn và thực hiện một cách rất bài bản. Vùng trồng cách ly với các ruộng xung quanh để không nhiễm thuốc bảo vệ thực vật. Đất, luống làm tốt để giúp cây phát triển đảm bảo hoạt chất. Dù phủ màng cho từng luống, nhưng ở vị trí trồng cà gai leo, cỏ vẫn mọc xen lẫn, cho thấy hệ sinh thái đồng ruộng ở đây được cân bằng và không sử dụng thuốc diệt cỏ. Nhìn cây cà gai leo không xanh mướt mà hơi cằn, chứng tỏ không sử dụng phân bón hóa học, đúng theo tiêu chí trồng cây dược liệu sạch để lấy hoạt chất...”, Th.S Đào Quang Trung nhấn mạnh.

Với những cây cà gai leo được chăm sóc theo tiêu chuẩn dược liệu sạch như ở đây sẽ cho hàm lượng hoạt chất glycoalkaloid cao gấp 7 lần so với quy chuẩn của dược điển.

Logo BioTrade được in trên bao bì sản phẩm giúp người dùng dễ dàng nhận biết được sản phẩm có nguồn gốc dược liệu sạch

Các sản phẩm từ nguồn nguyên liệu cà gai leo này như Giải độc gan Tuệ Linh, Cà gai leo Tuệ Linh đều được gắn logo BioTrade trên bao bì (BioTrade là nguyên tắc dược liệu sạch, bền vững, bảo tồn, bền vững, công bằng, minh bạch), giúp người tiêu dùng dễ dàng nhận biết được sản phẩm sạch, an toàn, góp phần đẩy lùi viêm gan virus và xơ gan hiệu quả.

Nhiệt miệng, chảy máu cam mùa nóng

Tình trạng nóng trong người còn khiến cơ thể khó chịu kèm theo triệu chứng: người khô táo, gầy yếu, khát nước nhiều, bứt rứt, khó ngủ, tiểu tiện khó khăn, tiểu ít, nước tiểu vàng, da khô, môi khô nứt nẻ, đổ nhiều mồ hôi, nổi mụn nhọt, mẩn ngứa, dễ bị dị ứng...Điều đáng nói nhiều trường hợp thường xuyên bị nhiệt miệng và chảy máu cam.

Giải thích về tình trạng trên BS Trần Thị Hải – Trường Cao đẳng Y tế Thái Nguyên cho biết: Theo y học cổ truyền cho rằng, nóng trong người là do âm hư bởi các nguyên nhân sau: nội nhân - do chức năng hoạt động của các tạng phủ yếu không thể thải các chất độc sinh ra trong quá trình chuyển hóa, gan và thận suy yếu nên các chức năng thanh lọc không đủ sức giải độc làm độc chất bị tích tụ lại, và chính những độc tố này tạo nên nóng trong người.

Các tác nhân bên ngoài như: sử dụng nhiều loại hóa chất (uống thuốc trong quá trình điều trị bệnh); uống nhiều rượu bia, hút nhiều thuốc lá; ăn uống không điều độ, ăn nhiều thức ăn cay, nóng, chất béo, chất đạm, thực phẩm quá ngọt hoặc là các chất quá nhiều năng lượng - chính năng lượng thừa bị đốt cháy làm gia tăng chuyển hóa cơ bản nên sinh nhiệt trong cơ thể; uống quá ít nước không đủ làm mát cơ thể và gây khô táo trong người; làm việc trong môi trường ô nhiễm và thời tiết nóng bức làm các tế bào hô hấp mạnh hơn nên sinh nhiệt trong người.

Hậu quả của nóng trong người là nhiệt độc tích tụ lâu ngày làm suy yếu hệ miễn dịch trong cơ thể, làm dễ bị nhiễm khuẩn, nhiễm trùng, nhất là nhiễm trùng đường tiết niệu, sinh dục, tiêu hóa; nhiệt độc lâu ngày còn có nguy cơ thâm nhập phần huyết, gây chứng huyết nhiệt có thể dẫn đến sốt cao, xuất huyết dưới da, chảy máu cam, rối loạn thành mạch.

Để hết nóng trong người cần phải thanh nhiệt giải độc, thanh nhiệt lương huyết bằng các loại thảo dược thiên nhiên dễ tìm, dễ sử dụng...trong đó ưu tiên thảo dược có vị đắng, tính mát (hoặc hàn) tác dụng thanh nhiệt, chống khô khát trong người, nhuận tràng, giải độc, mát gan như kim ngân, sài đất, cỏ mực, cúc hoa, sắn dây, huyền sâm, sinh địa, rau má, cỏ tranh, mã đề, râu ngô... sắc uống trong ngày.

Đối với trường hợp nhiệt miệng, TTƯT.ThS.BS. Lê Thị Hải khuyến cáo cần ăn nhiều sắn dây, rau xanh, hoa quả giảm bớt tình trạng thiếu vitamin B2, C. Để phòng tránh tình trạng viêm nhiệt miệng nên uống nước nhiều, khoảng 2-2,5l nước, thậm chí 3l nước/ngày vào những ngày nắng nóng.

Ngoài ra có thể dùng nước quả ép như dưa chuột, củ đậu, cà chua, cả rốt; ăn canh rau có tính chất mát mướp, khoai lang, rau dền rất tốt cho người có cơ địa nhiệt. Ăn nhiều các loại hoa quả như cam, chanh, thanh long, chuối, bưởi cung cấp nhiều vitamin để giảm bớt tình trạng nhiệt miệng. nếu tình trạng kéo dài và không thuyên giảm cần đi khám bác sĩ để được tư vấn điều trị kịp thời.

Chia sẻ về tình trạng mùa nóng hay chảy máu cam, ThS. BS Nguyễn Quốc Thái cho rằng do nhiều nguyên nhân. Chảy máu cam có thể do thành mạch mũi có vấn đề, có thể mũi chưa vệ sinh hoặc thói quen ngoáy mũi cũng khiến mũi chảy máu. Nằm điều hòa cũng có thể khiến mũi bị khô dễ bị mũi bị chảy máu vì vậy nên sử dụng điều hòa đúng cách.

Tuy nhiên, những người bị chảy máu cam thường do thành mạch mũi yếu, hoặc có kèm biểu hiện liên quan đến hô hấp trên thì nên khám chuyên khoa tai mũi họng. Nếu bệnh vẫn không giảm, vẫn còn biểu hiện cần phải đi khám chuyên sâu hơn, có thể là làm xét nghiệm máu.

Thanh Thảo (ghi)

5 tiến bộ y khoa vượt bậc năm 2018

Hệ thống giám sát insulin khép kín

Vào cuối năm 2016, hệ thống giám sát insulin khép kín đầu tiên được phát triển. Hệ thống này gồm 3 bộ phận riêng biệt: 1- thiết bị theo dõi glucose liên tục (CGM); 2- bơm insulin, và 3- bệnh nhân, người phải sử dụng thông tin từ CGM để xác định lượng insulin cần tiêm thông qua bơm insulin.

Công nghệ mới này cho phép kết nối tự động trực tiếp giữa CGM và bơm insulin, tiết kiệm từ 2 đến 4 lần tiêm kiểm tra mỗi ngày. Cách tiếp cận này không chỉ giúp bệnh nhân đái tháo đường phụ thuộc insuin quản lý đường huyết của mình dễ dàng mà còn nhận được những kết quả tốt cho việc ổn định đường huyết. Hệ thống mới này đang được giới y học hoan nghênh và xem như là “tụy nhân tạo” đầu tiên của thế giới.

Các kết quả đáng chú ý đã dẫn đến sự chấp thuận của FDA sớm hơn dự kiến. Thị trường này dự kiến sẽ phát triển bùng nổ vào năm 2018.

Phương pháp điều trị ngưng thở khi ngủ

Đối với những bệnh nhân được chẩn đoán ngưng thở khi ngủ do tắc 5nghẽn (OSA), một thiết bị tạo áp suất khí dương liên tục (C.P.A.P.) là phương pháp hiện được chỉ định giúp đem lại giấc ngủ yên tĩnh và an toàn. Tuy nhiên, C.P.A.P. cũng mang lại những phiền toái không mong muốn cho một số bệnh nhân: tiếng ồn, áp lực không dung nạp, kích ứng mặt nạ, sợ hãi, nghẹt mũi, khô miệng… nên có tới 40% bệnh nhân từ chối sử dụng C.P.A.P.

5 tiến bộ y khoa vượt bậc năm 2018Ứng dụng công nghệ thông tin trong chăm sóc sức khoẻ.

Kết quả là Neuromodulation, một phương pháp điều trị dễ chịu hơn, dự kiến sẽ gây bão trong thị trường này vào năm 2018. Hệ thống này bao gồm một cảm biến thở và một bộ phận kích thích chạy bằng một pin nhỏ. Hệ thống được kiểm soát bằng miếng dán trên cơ thể hoặc ngoài cơ thể. Trong thời gian ngủ, hệ thống cảm nhận các mẫu thở và kích thích nhẹ phần lưỡi và cổ họng để giữ cho đường thở luôn mở đủ. Phẫu thuật cấy ghép các thiết bị điều trị ngưng thở khi ngủ mới này chỉ làxâm lấn tối thiểu và có thời gian hồi phục ngắn. Neuromodulation được dự đoán là công nghệ giúp cải thiện giấc ngủ và đem lại cuộc sống khỏe mạnh hơn cho nhiều gia đình.

Liệu pháp gen cho các bệnh võng mạc do di truyền

Sau một khoảng thời gian gián đoạn, năm 2018 sẽ là năm đánh dấu sự quay trở lại mạnh mẽ của liệu pháp gen. Dự kiến FDA sẽ chấp thuận liệu pháp gen trong điều trị một số bệnh võng mạc do di truyền (“IRDs”). Đây là bệnh được xếp vào nhóm các bệnh hiếm và chưa có phương pháp điều trị hữu hiệu. Các nhà nghiên cứu hiện đang rất hy vọng liệu pháp gen mới sẽ giúpgiành lại thị lực ở các bệnh nhân bị bệnh võng mạc do di truyền và nhiều liệu pháp gen khác nữasẽ tiếp tục được phát triển trong các điều trị bệnh hiếm.

Công nghệ thông tin ứng dụng trong chăm sóc sức khoẻ từ xa

Mở rộng môi trường chăm sóc sức khoẻ đến tận nhà bệnh nhân là một mục tiêu của y khoa trong nhiều thập kỷ bởi rất nhiều tiện ích.

Năm 2018, sự phổ biến của các thiết bị kết nối sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của chăm sóc sức khoẻ từ xa.Các chuyên gia tin rằng yếu tố quan trọng nhất là các công nghệ di động được ghi nhận từ sự phát triển của điện thoại thông minh và sự vượt trội trong kết nốicủa các dịch vụgiúp kết nối nhiều người hơn bao giờ hết. Nhu cầu về chăm sóc sức khoẻ từ xa bây giờ đã có cơ sở hạ tầng toàn cầu để hỗ trợ và thúc đẩy nó.

Nhiều bệnh nhân hiện đang được trang bị các thiết bị gắn kết ghi lại và báo cáo các tiến triển hậu phẫu cho bác sĩ, giúp bác sĩ thường xuyên theo dõi tình trạng của bệnh nhân. Hơn 19 triệu bệnh nhân dự kiến sử dụng các thiết bị giám sát từ xa cung cấp thông tin cho bác sĩ vào năm 2018. Với đà xây dựng hiện có, các chuyên gia tin vào sự nổi lên và tăng tốc của các công nghệ và dịch vụ chăm sócsức khỏe từ xa trong năm 2018.

Monitor trung tâm - Giải pháp tổng thể cho bệnh viện

Theo Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ, có ít hơn 1/ 4 bệnh nhân sống sót sau khi ngừng tim, trong khi có tới 44% số ca ngừng tim không được phát hiện kịp thời. Vì vậy, an toàn về báo động hiện là một chủ đề nóng trong chăm sóc sức khoẻ trong các bệnh viện.

Monitor trung tâm dường như là giải pháp cho vấn đề này, trong đó hệ thống sử dụng các thiết bị tiên tiến, bao gồm camera độ nét cao và cáccảm biến để theo dõi huyết áp, nhịp tim, hô hấp, độ bão hòa oxy và nhiều thông số khác.Các thuật toán phân tầng rủi ro đồng hóa các dữ liệu phức tạp để tự động tạo ra các cảnh báo yêu cầu sự can thiệp tại chỗ của nhân viên y tế, đồng thời loại bỏ rất nhiều các báo động không cần thiết. Vào năm 2016, kết quả từ 13 tháng đầu tiên của hệ thống monitor trung tâm sử dụng các tiêu chí chuẩn đã được Tạp chí Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ công bố cho thấy: có hy vọng thực sự giảm tỷ lệ báo động dự phòng không cần thiết trong khi cải thiện kết cục lâm sàng. Trong nghiên cứu, hệ thống monitor trung tâm theo dõi gần 100.000 bệnh nhân, phát hiện ra các vấn đề nghiêm trọng và cảnh báo chính xác cho 79% các biến cố, giúp cứu sống 93% các trường hợp cấp cứu hô hấp tim mạch được cảnh báo. Quan trọng hơn, hệ thống monitor trung tâm có thể tăng gấp đôi số bệnh nhân chăm sóc trên mỗi kỹ thuật viên, rút ngắn thời gian cấp cứu, giảm bớt gánh nặng cho bác sĩ cũng như cải thiện việc kiểm soát tình trạng bệnh nhân.

Các dấu hiệu đều cho thấy 2018 là năm đánh dấu sự phát triển bùng nổ của hệ thống monitor trung tâm trong theo dõi bệnh nhân tại các bệnh viện.

DS. Nguyễn Hải Đăng

((Theo medica, 2018))

Giải mã bí ẩn bệnh ma cà rồng dưới góc nhìn khoa học

Trên thực tế, các nhà khoa học cho rằng một căn bệnh di truyền có tên porphyria và một số rối loạn hormon khác là nguyên nhân gây ra hiện tượng bí ẩn này. Mới đây, các nhà nghiên cứu đã khám phá ra bí mật về di truyền học giúp giải thích rõ hơn về các sinh vật huyền bí của bóng tối - ma cà rồng.

Các huyền thoại về ma cà rồng

Ma cà rồng là chủ đề thường xuyên của văn học dân gian, điện ảnh hay khoa học viễn tưởng. Thời Ai Cập cổ, nữ thần Sekhmet trong huyền thoại cũng trở nên cuồng khát máu sau khi sát sinh và chỉ có thể thỏa mãn khi uống rượu cồn màu máu. Trong dân gian châu u lưu truyền những câu chuyện về ma cà rồng, tiếng Pháp gọi là Vampire đêm đêm sống lại gọi tên từng người quen và hút máu của họ. Đặc điểm nổi bật của ma cà rồng là hút máu người, sợ ánh sáng, chỉ xuất hiện vào ban đêm dưới hình dạng một con dơi hoặc một con sói. Đến năm 1897, cuốn tiểu thuyết kinh điển “Dracula” được viết bởi nhà văn Bram Stoker ra đời với nhân vật chính là Bá tước Dracula - một ma cà rồng chuyên hút máu người với những hình phạt vô cùng dã man và tàn bạo dựa trên nhân vật có thật trong lịch sử chính là Vlad Tepes III, càng khiến niềm tin rằng ma cà rồng là sinh vật có thật.Ma cà rồng (ảnh minh họa)

Ma cà rồng (ảnh minh họa)

Những tổn thương do bệnh ma cà rồng của một bệnh nhân Việt Nam.Những tổn thương do bệnh ma cà rồng của một bệnh nhân Việt Nam.

Hội chứng chuyển hóa porphyrine

Cuối thế kỷ 20, có nhiều nghiên cứu về ma cà rồng và năm 1963, một bác sĩ người Anh có tên Lee Illis đã giải thích về hiện tượng này là do chứng rối loạn chuyển hóa porphyria - chứng bệnh cực hiếm này sinh ra do sự mất cân bằng trong sản sinh heme - một sắc tố giàu chất sắt trong máu. Người mắc phải chứng bệnh này sẽ rất sợ ánh sáng mặt trời do cơ thể họ sẽ phải chịu đau đớn về thể xác do hermoglobin trong máu sẽ bị phân hủy dưới tác động của tia tử ngoại. Ngoài ra, người bệnh phải đối mặt với những rối loạn về hormon dẫn đến tình trạng móng tay, móng chân mọc dài, cứng và cong lại. Lông mọc trên toàn cơ thể, lớp da quanh môi và lợi mỏng, co hơn khiến răng lộ ra như những chiếc nanh sói. Vì lớp da quanh môi mỏng nên dễ bị tổn thương dẫn đến thường chảy máu miệng. Đây chính là hình ảnh khiến người ta liên tưởng đến việc hút máu người.

Các thầy thuốc trước đây chữa căn bệnh này bằng cách cho bệnh nhân uống máu tươi để cân bằng sự thiếu máu trong cơ thể. Chính vì vậy, câu chuyện về ma cà rồng đã được thêu dệt thêm và truyền từ đời này sang đời khác. Ngoài ra, bệnh nhân mắc porphyrine thường có miệng, răng màu đỏ do hoạt động sinh sắc tố heme không ổn định, phân của họ cũng có màu tím. Chứng porphyria cũng có tính di truyền. Tuy nhiên, những giải thích của các bác sĩ thời đại này vẫn chưa thể lý giải một cách đầy đủ về những câu chuyện của ma cà rồng khiến người ta vẫn suy đoán về căn bệnh này là một căn bệnh huyền bí.

Khám phá mới về di truyền học

Một đột biến về gene được khám phá gần đây đã giúp các nhà nghiên cứu có cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn về căn bệnh này. Việc biết được gene nào gây ra tình trạng porphyria có thể đưa đến cách điều trị căn bệnh này và thậm chí ngăn ngừa căn bệnh ngay từ khi có những triệu chứng đầu tiên.

Porphyria là một thuật ngữ chỉ một nhóm các rối loạn gây ra từ sự tích tụ bất thường của porphyrin trong máu. Porphyrin được sử dụng để tạo hemoglobin - phân tử trong tế bào hồng cầu có chức năng mang ôxy đi khắp cơ thể và làm hồng cầu có màu đỏ tươi. Tình trạng tích tụ porphyria ảnh hưởng đến hệ thần kinh và da, gây ra các rối loạn khác và tùy thuộc vào nơi tích tụ porphyria sẽ gây ra các triệu chứng khác nhau. Các nhà nghiên cứu từ Trung tâm Ung thư Bệnh viện Nhi Boston, Mỹ cho biết, ma cà rồng thực chất là những người mắc hội chứng erythropoietic protoporphyria (EPP) - đây là một đột biến gene và gây ảnh hưởng tới lượng ôxy trong máu. Chứng bệnh này gây ảnh hưởng đến cơ chế phân tử của cơ thể trong quá trình tạo heme (sắc tố đỏ) - một thành phần trong protein vận chuyển ôxy hemoglobin. Khi heme kết hợp với sắt sẽ tạo thành màu đỏ cho máu nhưng biến thể của gene - có tên ferrochelatae ảnh hưởng đến quá trình sản xuất heme tạo thành những biểu hiện khác nhau của bệnh porphyria. Các nhà nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng, bất cứ một khiếm khuyết nào của gene cũng ảnh hưởng đến quá trình tổng hợp porphyrin - xảy ra chủ yếu ở gan và tủy xương - đều khiến quá trình sản xuất heme bị ảnh hưởng dẫn tới sự hình thành các thành tố protoporphyrin. Đối với những bệnh nhân EPP, một loại protoporphyrin có tên protoporphyrin IX được tích trữ trong tế bào hồng cầu, huyết tương và gan khiến nó sản sinh ra các thành tố hóa học phá vỡ kết cấu của các tế bào xung quanh. Đây là lý do tại sao bệnh nhân EPP bị đau, rát, da có nốt đỏ khi tiếp xúc với ánh sáng mặt trời. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp bệnh nhân EPP, các nhà khoa học không thể giải thích được lý do tại sao protoporphyrin IX được hình thành cho tới khi họ phát hiện trong trình tự sắp xếp gene, có một biến thể mới ở gene là CLPX - gene có vai trò trong quá trình tổng hợp ti thể. TS. Barry Paw, tác giả nghiên cứu cho biết: “Đột biến mới phát hiện này cho thấy sự phức tạp trong hệ thống gene - nền tảng của quá trình trao đổi heme - sẽ là chìa khóa cho việc phát hiện nguyên nhân chính xác gây bệnh porphyria từ đó có thể mở ra phương pháp điều trị cho căn bệnh này trong tương lai”.

Huệ Minh

((Theo SA, 2017))

Điều cần biết khi phẫu thuật mắt bằng phương pháp LASIK

- Cho kết quả chính xác.

- Độ an toàn rất cao khi thực hiện trên máy LASER hiện đại.

- Thời gian phẫu thuật ngắn khoảng 5-10 phút.

- Không đau, chỉ cần nhỏ thuốc tê, không cần khâu, không chảy máu.

- Thị lực phục hồi nhanh chóng, nhìn rõ sau vài giờ và có thể trở lại làm việc ngay ngày hôm sau.

Lasik là phương pháp điều trị tật khúc xạ bằng laser. Laser dùng để điều trị tật khúc xạ là Excimer Laser, bước sóng 193nm, không sinh nhiệt.

Điều kiện cần đối với một người muốn thực hiện phẫu thuật mắt bằng phương pháp lasik:

Đủ 18 tuổi trở lên : theo nghiên cứu các ca lâm sàng đây là độ tuổi mổ hiệu quả nhất, ít mắc lại sau phẫu thuật.

Mắt đang có tật khúc xạ : cận, viễn, loạn . Bản chất của các tật khúc xạ này là do sự thay đổi độ cong của giác mạc nên đã thay đổi trục nhãn cầu. Chính vì thế phương pháp Lasik đã được áp dụng đặt lại trục nhãn cầu giúp ảnh hội tụ đúng đúng trên võng mạc.

Tật khúc xạ ổn định : Thường thì độ cận không tăng quá 0,75 độ trong vòng 1 năm. Cần thận trọng với các người bị cận thị trên 6 độ vì khả năng tái lại cao, đặc biệt theo thống kê, với những người cận trên 8 độ thì hầu như sẽ bị tái lại sau khi mổ.

Sức khỏe tốt, đặc biệt không bị các bệnh rối loạn hệ miễn dịch, viêm khớp dạng thấp.

Mắt không có các bệnh lý đang tiến triển : cụ thể như viêm nhiễm giác mạc, viêm kết mạc, chấn thương, bong võng mạc,...

➢ Không mang thai hoặc đang cho con bú

Hiện nay,có khá nhiều người quan tâm đến phương pháp này tuy nhiên họ còn khá lo lắng và chưa nắm hết những vấn đề như:

- Phẫu thuật LASIK có an toàn không?

- Lasik có gây đau không?

- Có nên phẫu thuật hai mắt cùng lúc không?

- Sau phẫu thuật độ khúc xạ có ổn định không?

- Chi phí cho một cuộc phẫu thuật như thế nào?...

Thực tế, bạn sẽ không cần phải lo lắng quá nhiều, vì LASIK giúp cho bạn có thể nhìn rõ không cần phải lệ thuộc vào cặp kính hay contact lens nữa.

Bạn chỉ cần nắm rõ 4 điều sau là có thể hoàn toàn yên tâm khi quyết định lựa chọn phương pháp Lasik:

Thứ nhất, Nếu bạn đang đeo contact lens thì nên ngưng ít nhất 1 tuần. Bạn sẽ phải mất gần 3 giờ đồng hồ tại bệnh viện để đo và khám mắt toàn bộ. Nếu không có gì bất thường,bạn sẽ tự lựa chọn ngày mổ thích hợp từ sáng thứ 2 đến sáng thứ 7 hàng tuần.

Thứ hai, Thời gian phẫu thuật mỗi mắt khoảng 5-10 phút, nhưng thời gian LASIK thực sự chỉ khoảng gần 1 phút nên không gây ra cảm giác đau trong và sau phẫu thuật.

Bạn nên đến bệnh viện vào sáng sớm để Bác sĩ gặp gỡ, tư vấn và nghỉ ngơi. Sau mổ 30 phút Bác sĩ sẽ khám lại và bạn có thể xuất viện ngay.

Thứ ba, vấn đề tài chính cũng khiến nhiều người bận tâm. Cũng tùy theo gói kỹ thuật mổ mắt lasik mà giá khác nhau, nhưng mức trung bình là 20-30 triệu đồng cho cả 2 mắt. Chúng ta có thể tham khảo ở các bệnh viện lớn về những chương trình khuyến mại vào các dịp như dịp hè, những chương trình khuyến mại có khi lên tới 70%-100% đối với tất cả mọi người, và ai cũng sẽ có cơ hội để tham gia gói ưu đãi đó nếu bạn thường xuyên để ý thông tin.

Cuối cùng, Bạn chỉ cần chuẩn bị một tâm lý tốt, không quá lo sợ về vấn đề này. Bạn có thể liên hệ trực tiếp với bác sĩ phẫu thuật nếu như đã được nhân viên chăm sóc khách hàng tư vấn nhưng vẫn chưa thực sự hài lòng. Những thắc mắc của bạn sẽ được các chuyên gia giải thích kỹ lưỡng để bạn không phân vân trước khi thực hiện phẫu thuật.

Lời khuyên cho bạn:

Phẫu thuật lasik là một cuộc cách mạng trong phẫu thuật khúc xạ vì tính chính xác và thị lực hồi phục nhanh sau phẫu thuật. Tuy nhiên, phẫu thuật lasik không phải dành cho tất cả người bị cận thị. Nếu chỉ định đúng thì phẫu thuật này là phương thức tốt để điều chỉnh cận thị. Nếu chỉ định sai thì hậu quả thật khôn lường vì đa số người cận thị là những người trẻ, còn cả một tươnglai dài trước mắt.

Nếu bạn không muốn mang kính gọng thì có thể mang kính tiếp xúc khi tham gia một số hoạt động. Nếu vì ngành nghề đặc biệt không được mang kính gọng và kính tiếp xúc mới mổ lasik.

Nếu bạn chỉ cận nhẹ 1-2 độ, không bị lệ thuộc kính thì không cần phải mổ, vì sau này khi 40 tuổi bị lão thị sẽ không cần đeo kính lão (đây là một ưu thế so với người bình thường).

Nếu cận trên 6 độ thì nên thận trọng theo dõi độ cận và luôn nhớ là chỉ mổ khi độ cận thật ổn định. Tỉ lệ bị cận tái phát sẽ cao hơn nhóm cận thị dưới 6 độ.

Trên 40 tuổi cần được bác sĩ tư vấn kỹ. Nếu bác sĩ khuyên không nên mổ thì nên tuân thủ. Bạn đừng quá kỳ vọng vào phương pháp mổ lasik và tìm nơi khác để “được mổ” thì hậu quả vô cùng tai hại. Đã có trường hợp không thể cứu vãn được thị lực như trước khi mổ.

Hiện nay tại nước ta, Công ty TNHH Thương mại Dược phẩm Phương Linh đã nhập khẩu và phân phốiThuốc bổ mắt PM Eye Tonic giúp tăng cường chức năng mắt hiệu quả, được sản xuất hoàn toàn tại Úc là nơi có quy chuẩn chất lượng sản xuất nghiêm ngặt hàng đầu.

Với 100% nguyên liệu từ thiên nhiên, PM Eye Tonic là sản phẩm bảo vệ sức khỏe hoàn hảo bổ sung các thành phần: cao chiết xuất quả Bilberry chuẩn hóaDầu cá, Vitamin A, Vitamin B1, B2… rất tốt cho việc bổ sung dưỡng chất thiết yếu cho đôi mắt sáng khỏe, đã được cáchơn 10 năm qua tại Việt Nam.

Sản phẩm này đã có bán trên các Bệnh viện Trung ương và các nhà thuốc lớn trên toàn quốc.

Dược sĩ tư vấn: 0127 370 4862

Website: http://ThuocBoMat.com.vn/

GPQC: Số 159/2017/XNQC-QLD

Đọc kỹ hướng dẫn trước khi sử dụng.

Cần đưa vắc

Nguyên nhân gây ra bệnh tiêu chảy nghiêm trọng ở trẻ em

Rotavirus là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất gây ra bệnh tiêu chảy nghiêm trọng ở trẻ em. Tại Việt Nam, gần một nửa số bệnh nhi mắc bệnh tiêu chảy là do Rotavirus và cứ mỗi ngày qua đi có từ 2 - 3 trẻ em mất vì căn bệnh này. Cho trẻ bú sữa mẹ hoàn toàn, rửa tay và vệ sinh sạch sẽ là những biện pháp phòng ngừa quan trọng, thế nhưng tại các quốc gia phát triển, nơi có mức độ vệ sinh cao, đây vẫn là một căn bệnh phổ biến. Tiêm chủng phòng ngừa Rotavirus là một phần thiết yếu nhằm ngăn chặn và kiểm soát căn bệnh tiêu chảy này.

Tiêm vắc-xin - Giải pháp hiệu quả và tiết kiệm nhất

Vắc-xin bảo vệ trẻ em khỏi những bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, có khả năng để lại di chứng cả đời hoặc thậm chí gây tử vong. Tại các quốc gia nơi vắc-xin được sử dụng thường xuyên, sức khoẻ người dân được cải thiện, chi phí chăm sóc sức khoẻ giảm xuống và cứu được mạng sống của nhiều người. Ngoài ra, trong một cộng đồng, vắc-xin mang lại lợi ích gián tiếp cho những người không được tiêm chủng, bao gồm người già, trẻ em quá nhỏ không thể tiêm chủng và những ai có hệ miễn dịch kém, thông qua cơ chế bảo vệ đàn. Tiêm vắc-xin là một trong những giải pháp hiệu quả và tiết kiệm nhất hiện nay.

Tiêm chủng cũng có khả năng giúp giảm tỷ lệ trẻ em phải nhập viện tại Việt Nam khi mà các bệnh viện Trung ương và tuyến tỉnh luôn trong tình trạng quá tải và thiếu giường cho bệnh nhi. Ước tính tỷ lệ tiếp nhận bệnh nhân của các bệnh viện trên là 120-160%. Một nghiên cứu mới đây tại Bangladesh cho thấy việc tiêm chủng Rotavirus thường xuyên tại quốc gia này giúp giải phóng hơn 600 giường bệnh mỗi năm, do đó cho phép các bệnh viện tiếp nhận thêm nhiều bệnh nhân mắc bệnh hiểm nghèo khác.

Sốt, nôn và tiêu chảy là những triệu chứng điển hình khi trẻ nhiễm RotavirusSốt, nôn và tiêu chảy là những triệu chứng điển hình khi trẻ nhiễm Rotavirus.

Việt Nam đã có những tiến bộ lớn trong bảo vệ và nâng cao sức khoẻ của trẻ em. Trong 2 thập kỷ qua, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng và tử vong ở trẻ sơ sinh đã giảm đáng kể. Với 96% trẻ em được tiêm chủng bệnh bạch hầu, uốn ván và ho gà (DTP), tỷ lệ tiêm chủng của chúng ta tương đương, thậm chí vượt qua cả một số quốc gia phương Tây. Chúng ta cũng là một trong những quốc gia tiên phong sử dụng công nghệ để cải thiện khả năng tiếp cận vắc-xin và giảm tình trạng khan hiếm vắc-xin. Các nhân viên y tế được phát điện thoại và máy tính bảng để truy cập và cập nhật hồ sơ tiêm chủng và gửi tin nhắn nhắc nhở lịch tiêm cho cha mẹ.

Chương trình Tiêm chủng mở rộng (TCMR) Quốc gia cung cấp 12 loại vắc-xin miễn phí cho tất cả các trẻ em trên toàn quốc. Đây là một trong những nỗ lực của Chính phủ nhằm giảm tỷ lệ tử vong và mắc bệnh các loại bệnh có thể phòng tránh được. Các loại vắc-xin này đã bảo vệ hơn 6 triệu trẻ em và ngăn chặn hơn 40.000 ca tử vong ở trẻ em trong vòng 2 thập kỷ rưỡi vừa qua. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc gần đây đã phê duyệt ngân sách cho tiêm chủng đến năm 2020, trong đó đảm bảo nguồn tài chính cho vắc-xin và công nghệ giữ lạnh cần thiết để đưa các loại vắc-xin này tới khắp mọi miền trên Việt Nam. Chúng ta cũng tích cực nghiên cứu và tự sản xuất ra các loại vắc-xin của mình, hơn 10 loại vắc-xin đã được phát triển và sản xuất tại Việt Nam nhằm bảo vệ trẻ em khỏi các bệnh hiểm nghèo.

Cần thiết phải đưa vắc-xin Rotavirus vào Chương trình TCMR

Mặc dù đã có 90 quốc gia trên thế giới đưa vắc-xin Rotavirus vào chương trình tiêm chủng thường xuyên nhưng hiện nay, trên thế giới, chưa tới một nửa trẻ em được tiếp cận với loại vắc-xin này. Hầu hết trẻ em tại Việt Nam không được tiêm chủng loại vắc-xin quan trọng này do nó chưa được đưa vào Chương trình TCMR Quốc gia. Trên thực tế, rất ít các quốc gia Nam Á và Đông Nam Á sử dụng vắc-xin Rotavirus. Việt Nam có cơ hội trở thành quốc gia đi đầu trong việc đưa vắc-xin Rotavirus vào chương trình tiêm chủng thường xuyên của mình nhằm bảo vệ trẻ em của chúng ta, đồng thời làm gương cho các nước khác noi theo.

GS.TS. Đặng Đức Anh

((Viện trưởng Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương, Chủ nhiệm Chương trình Tiêm chủng mở rộng Quốc gia))